Trở Về Ấn Độ
Tàu Rajputana về đến hải cảng Bombay ngày 22 tháng 8, năm 1935. Tôi hít đầy phổi
cái không khí yên lành của Ấn Độ.
Vừa lên tới bến, tôi đã nhìn thấy trước những gì đang chờ đợi tôi ở xứ nhà: đó
là mười hai tháng trường hoạt động không ngừng. Các bạn bè và thân bằng quyến
thuộc tiếp đón chúng tôi trên bến với những tràng hoa tươi. Kế đó, khi chúng tôi
đến khách sạn Taj Mahal, chúng tôi liền bị bao vây bởi những ký giả và nhiếp ảnh
viên. Sau khi đã ký thác cho sở Hỏa Xa chiếc xe Ford của chúng tôi đem theo
xuống tàu từ bên Mỹ Quốc, nhóm ba người chúng tôi hối hả dáp xe lửa đi Calcutta.
Đến ga Howrah, chúng tôi được tiếp đón bởi một số người đông đảo đến nỗi chúng
tôi phải vất vả khó khăn mới bước lên tới bến. Vị tiểu vương Kasimbazar và em
trai tôi là Bishnu điều khiển ủy ban tiếp đón, chúng tôi không hề nghĩ rằng mình
sẽ được đón tiếp một cách nồng nhiệt như vậy.
Cha tôi ôm chầm lấy tôi dường như tôi vừa sống lại và chui ra khỏi mồ! Chúng tôi
nhìn nhau rất lâu trong câm lặng vì vui mừng. Các anh em chị em tôi, các bà con
thân quyến, học trò và bằng hữu cố tri ngày xưa vây chung quanh tôi, với đôi mắt
đẫm lệ. Đến bây giờ thì cảnh tượng trở về quê nhà trong sự đón tiếp nồng hậu đầy
tình thương ấy chỉ là một kỷ niệm xa vời, nhưng nó sẽ tồn tại mãi mãi trong lòng
tôi.
Tôi không tìm thấy ngôn ngữ nào có thể diễn tả nỗi tâm trạng của tôi khi tôi gặp
lại Sri Yukteswar, Sư Phụ tôi. Tôi xin trích một đoạn văn của bạn Richard đã tả
cảnh tái ngộ ấy trong tập Du Ký của ông như sau:
“Hôm nay, trong sự vui mừng và trông đợi, tôi lái xe đưa đại đức Yogananda từ
Calcutta đi Serampore. Chúng tôi đi ngang qua những dãy hàng quán hai bên đường
(trong một quán cơm này, đại đức Yogananda thường dùng bữa trong những năm ở
trường đại học) và sau cùng, đi rẽ vào con đường nhỏ hẹp giữa hai vách tường.
Cuối đường xe quẹo về bên trái thì đã tới đạo viện, một ngôi nhà lầu hai tầng,
giản dị nhưng ấm cúng, với một bao lơn kiểu Tây Ban Nha nhô ra phía ngoài từng
lầu trên. Cảm tưởng chung là một nơi hẻo lánh và yên tĩnh.
“Tôi đi theo đại đức Yogananda vào một cái sân nhỏ vào trong đạo viện. Trong
lòng hồi hộp, chúng tôi bước lên những bậc thang đã cũ mà chắc hẳn hàng nghìn
những người tìm đạo đã từng bước qua. Mỗi bước làm cho tôi càng thêm hồi hộp.
Thình lình, tôi thấy xuất hiện ở trên cầu thang, vị Tôn Sư Sri Yukteswar, trong
dáng điệu cao quý của một nhà hiền triết.”
“Run lên vì xúc động, tôi cảm thấy cái ân huệ tốt lành của sự hiện diện cao cả
ấy. Đôi mắt tôi ứa lệ trong khi đó đại đức Yogananda, với tất cả sự biết ơn vô
hạn trong tâm hồn, cúi đầu quỳ xuống chân Sư Phụ, đưa tay nắm lấy, rồi kế đó gục
đầu xuống hai chân người để rỏ rõ sự cung kính rất mực và tuyệt đối phục tùng.
Kế đó, người mới đứng dậy và Sri Yukteswar ôm lấy người một cách thật đậm đà
thân mến.”
“Trước hết một cơn yên lặng ngự khắp gian phòng, nhưng cái yên lặng đó diễn tả
tất cả những khía cạnh của hai tâm hồn. hai cặp mắt long lanh chiếu những tia
sáng hạnh phúc trước sự tái ngộ của hai thầy trò sau bao nhiêu năm xá cách.”
“Đến lượt tôi cũng quỳ trước mặt Sư Phụ, tôi bày tỏ tấm lòng yêu mến và biết ơn
người, tôi cũng cúi xuống nắm hai bàn chân đã tê cứng với thời gian và nhận lãnh
ân huệ của Tôn Sư. Kế đó, tôi đứng dậy, nhìn vào đôi mắt của Tôn Sư, một đôi mắt
đẹp, lớn, thâm trầm và chiếu sáng vì vui mừng. Chúng tôi bước qua phòng khách,
mà một bên giáp với bao lơn, và có thể nhìn thấy đường lộ. Tôn Sư ngồi trên một
tấm niệm trải dưới sàn gạch, dựa lưng vào một cái gối lớn. Đại Đức Yogananda và
tôi ngồi dưới chân Tôn Sư, trên một chiếc chiếu bằng rơm, và dựa cùi chỏ trên
những cái gối gòn màu vàng sậm.
“Tôi cố gắng theo dõi câu chuyện đàm thoại bằng tiếng Bengali giữa hai thầy trò
đại đức nhưng không hiểu được gì cả vì cả hai không dùng tiếng Anh, tuy rằng Tôn
Sư cũng nói được tiếng Anh trôi chảy. Nhưng sự thánh thiện của Tôn Sư được biểu
lộ qua nụ cười hồn nhiên và tia sáng trong cặp mắt. Một đặc điểm trong tính chất
của Tôn Sư là sự nhận xét đứng đắn trong mọi chuyện, đó tức là dấu hiệu minh
triết của một người đã cảm thông được với Thượng Đế.”
“Tôi kính cẩn đưa mắt nhìn Tôn Sư thì thấy người vóc vạc cao lớn, vai rộng và
dường như được trui rèn cứng rắn bởi bao nhiêu những cuộc thử thách và hi sinh
của cuộc đời xuất gia. Người có một cái trán cao, cái mũi lớn, đôi mắt nâu sậm,
tóc dài gợn sóng, rẽ làm hai phần, đã điểm bạc và thòng xuống đến tận vai. Hàm
râu hơi thưa và ngắn, tuy nhiên bộ râu khéo xén kỹ làm tăng vẽ uy nghiêm trên
gương mặt.”
“Tôn sư có giọng cười lớn, thành thật và cởi mở, hồn nhiên. Toàn thân người toát
ra một sức mạnh, lưng thẳng và dáng điệu hùng vĩ. Tôn Sư mặc áo rộng và vận một
các chăn vải, trước kia chắc hẳn là màu nâu sậm, nhưng nay đã trở thành màu vàng
lợt. Tuy đã 81, Tôn Sư có vẻ lực lưỡng và khỏe mạnh.”
“Tình trạng cũ kỹ của gian phòng cho thấy rằng Tôn Sư ít chú trọng đến vấn đề
vật chất. Nhưng vách tường quét vôi trắng đã trổ màu với thời gian. Ở một góc
phòng có một bức chân dung của đại đức Lahiri Mahasaya treo trên vách. Ngoài ra
còn có một bức ảnh đại đức Yogananda chụp chung với các vị đại biểu quốc tế tại
Đại hội Tôn Giáo ở Boston.
“Tôi cũng nhận thấy một sự chung đụng lạ lùng giữa cổ lẫn kim: một cái chân đèn
lớn có đóng mạng nhện vì đã lâu không dùng đến, trên tường một quyển lịch không
lật đúng ngày. Từ những thứ đó toát ra một bầu không khí yên tịnh, êm đềm. Bên
ngoài bao lơn, những cây giờ cao lớn tỏa bóng mắt và che chở khắp đạo viện.”
“Tôn Sư chỉ cần vỗ hai bàn tay để sai bảo những vị đệ tử trẻ tuổi trong đạo viện
khi người cần dùng đến họ. Tôi có cảm tình đặc biệt với một thanh niên tên là
Prafulla, với mái tóc đen dài xõa xuống vai, đôi mắt đen láy với cái nhìn sâu
sắc thâm trầm và nụ cười hiền dịu. Đôi mắt y chiếu sáng mỗi khi hai khoé miệng y
xếch lên trong một nụ cười, giống như hai ngôi sao và mặt trăng lưỡi liềm vào
lúc hoàng hôn.”
“Tuy Tôn Sư bản tính vui vẻ hồn nhiên, nhưng sự minh triết thiêng liêng mới là
điểm đáng nổi bật trong tác phong của người, nó khiến cho người không hề bộc lộ
tình cảm ra ngoài.”
“Đại đức Yogananda dâng lên Tôn Sư các món quà biếu theo tục lệ thông thường khi
một đệ tử đi xa trờr về gặp lại Sư Phụ. Sau đó, một bữa cơm giản dị, tươm tất
được dọn ra cho chúng tôi, với các món ăn rất khéo gồm có cơm và rau đậu. Tôn Sư
lấy làm thích thú khi thấy tôi hòa mình với phong tục Ấn Độ, và ăn cơm bằng
tay.”
“Sau nhiều giờ hàn huyên và đàm luận trong tình thầy trò thân mật đậm đà, chúng
tôi vừa kính cẩn kiếu từ Sư Phụ vừa chắp tay đưa lên trán theo phong tục của bổn
xứ, và trở về Calcutta với những kỷ niệm khó quên. Tuy rằng cảm giác của tôi mới
chỉ là bề ngoài, tôi cũng ý thức được sự cao cả tâm linh của Sư Phụ. Tôi cảm
giác được cái sức mạnh tinh thần của người, và cái cảm giác đó đối với tôi là
một ân huệ thiêng liêng.”
***
- Bạch Sư Phụ, con rất sung sướng mà được gặp có một mình Sư Phụ sáng nay!
Tôi vừa mới đến đạo viện Serampore với một giỏ hoa quả thơm phức là quà biếu Sư
Phụ. Sư phụ nhìn tôi với cặp mắt dịu hiền:
- Con muốn nói chi?
- Bạch Sư Phụ con đến với sư phụ từ ngày còn là học trò. Bây giờ, con đã là một
người ở tuổi trung niên, với một hai sợi tóc trắng! Sư Phụ đã ban cho con một sụ
trìu mến thương yêu thầm lặng từ giờ phút đầu, nhưng chỉ có một lần, một lần
thôi, vào ngày chúng tôi gặp nhau, Sư Phụ đã nói rằng Sư Phụ thương con!
Cái nhìn của tôi có vẻ tha thiết. Sư Phụ cuối mặt nhìn xuống đất, và nói:
- Yogananda, con lại muốn cho Thầy phơi bày những tình cảm nồng ấm ra ngoài bằng
những ngôn ngữ thường tình sao?
- Bạch Sư phụ con biết rằng Sư phụ thương con nhưng tai phàm của con mong ước
được nghe điều đó từ miệng Sư Phụ nói ra.
- Được, con sẽ được như ý. Khi Thầy còn sống cuộc đời người gia trưởng. Thầy đã
mong có một người con để dạy nó theo môn pháp Yoga. Khi con bước vào cuộc đời
Thầy, Thầy đã được như ý muốn, Thầy đã tìm thấy ở nơi con đứa con trai của Thầy!
Hai giọt lệ đợm trên mắt Sư Phụ tôi:
- Yogananda, Thầy vẫn thương con như bây giờ!
- Lời nói của sư phụ đã mở của Thiêng Đàng cho con!
Tôi bất giác thốt lên với tấm lòng nhẹ nhõm như trút được một gánh nặng.
Tôi vẫn thường ngạc nhiên về cái im lặng của Sư Phụ. Tôi biết rằng Sư Phụ tôi
tính tình trầm tĩnh và tự chủ, tuy vậy tôi vẫn e ngại rằng tôi không làm vừa
lòng người. Đối với con mắt người đời, tính chất là lùng, bí hiểm của Sư Phụ
không bao giờ có thể đoán biết được rõ ràng, nhất là khi mà những giá trị của sự
vật trần gian không còn có ý nghĩa gì đối với người nữa.
Vài ngày sau đó, tôi thuyết pháp trước một của tọa đông đảo tại giảng đường
Albert Hall ở Calcutta, trong dịp này Sư Phụ tôi bằng lòng ngồii bên cạnh tôi
trên diễn đàn cùng với vị quốc vương Santosh và viên thị trưởng Thành phố
Calcutta. Sư phụ không bình phẩm gì, nhưng thỉnh thoảng tôi liếc nhìn Sư Phụ thì
nhận thấy trong cặp mắt của người có hiện ra vẻ hài lòng.
Sau đó ít lâu, Sư Phụ làm lễ đưa tôi lên cấp đẳng Parahamsa của dòng tu sĩ xuất
gia. Khi tôi quỳ trước mặt Sư Phụ để thụ lễ tăng cấp, người nói:
- Quả vị này chánh thức đưa con lên một cấp cao hơn quả vị Swami của con trước
kia. Từ nay đạo nghiệp của Thầy trên thế gian này đã chấm dứt, con sẽ có bổn
phận tiếp tục công việc ấy.
Sư Phụ nói với giọng trầm tĩnh, đôi mắt của người vẫn giữ nét yên lặng. Tôi bắt
đầu cảm thấy sợ hãi. Kế đó người nói tiếp:
- Con hãy chỉnh định cho Thầy một người kế thừa để trong nom đạo viện tại Puri.
Thầy giao tất cả mọi việc trong tay con. Từ nay con sẽ lái con thuyền đời của
con và đạo của Thầy đến những bờ bến thiêng liêng. Hai hàng lệ tuôn tràn, tôi
cuối xuống hôn hai bàn chân thiêng liêng của Sư Phụ, người đứng dậy và ban ân
huệ cho tôi một cách thân yêu.
Qua ngày hôm sau, tôi cho mời một đệ tử tên là Swami Sebananda từ Ranchi đến và
giao cho y trọng trách điều khiển đạo viện Puri.
Hàng ngày sống bên cạnh Sư Phụ, sống trong bầu không khí đầy tình thương yêu của
người, tình thương ấy tuy thầm lặng, nhưng biểu hiện trong từng chi tiết nhỏ
nhặt, tôi quên hẳn tất cả những lời nói úp mở của Sư Phụ ám chỉ sự từ trần của
người sắp đến.
- Bạch Sư Phụ, thánh lễ Kumbha Mela năm nay sẽ cử hành tại Allahabad.
Tôi vừa nói vừa chỉ cho Sư Phụ ngày cuộc lễ có ghi trong một quyển lịch.
- Con thật có muốn dự lễ này chăng?
Không hiểu rằng Sư Phụ nói thế là có ngụ ý bảo tôi đừng đi, tôi nói thêm:
Sư Phụ đã có lần gặp đức Babâji trong một cuộc thánh lễ Kumbha Mela. Biết đâu
lần này con chẳng có duyên mai được gặp ngài tại đó?
- Thầy không tin như vậy.
Nói đến đó, Sư Phụ lại im lặng, vì người không muốn làm trái với ý định của tôi.
Sáng ngày hôm sau, khi tôi cùng một nhóm nhỏ gồm vài môn đệ lên đường đi
Allahabad, Sư Phụ điềm nhiên ban ân huệ cho tôi như không có việc gì hệ trọng.
Sở dĩ tôi không hiểu lời cảnh báo ngầm của Sư Phụ tôi, chắc hẳn là bởi vì thượng
Đế muốn tránh cho tôi khỏi vị sự đau khổ phải chứng kiến cái chết của Sư Phụ tôi
mà không làm gì được. Như vậy, đấng Thượng Đế từ bi vô lượng đã giữ tôi ở cách
xa giờ phút hấp hối của những người thân yêu của tôi.
Nhóm chúng tôi đến dự thánh lễ Kumbha Mela ngày 23 tháng 1 năm 1936. Quần chúng
đông gần hai triệu người từ khắp mọi nơi đổ dồn về thành phố, gây một cảnh tưởng
rất náo nhiệt ồn ào. Tôn giáo là lẽ sống của người dân Ấn Độ, từ người nông dân
chất phát đến người tu sĩ khất thực đã cắt đứt mọi sợi dây liên lạc trói buộc
với thế gian, đi tìm sự giác ngộ tâm linh để hưởng cái lạc thú vô biên của cõi
Tinh Thần. Lẽ tất nhiên cũng có những kẻ giả mạo, bịp đời, đội lốt nhà tu để
sóng một đời ký sinh, ăn nhờ của bố thí, nhưng người Ấn vẫn trọng vọng tất cả
các tu sĩ vì trong số đó có một thiểu số những bậc chân tu đắc Đạo ban rãi ân
huệ thiêng liêng cho toàn thể xứ sở của họ.
Chúng tôi trải qua ngày đầu tiên để đi nhìn xem cảnh vật chung quanh. Hàng hà sa
số những tín đồ Ấn giáo trầm mình dưới sông Hằng linh thiên để rửa sạch tội lỗi,
hoặc làm lễ dọn mình để cầu phước. Trên bờ sông, những tín đồ cúng dường vật lễ
dưới chân các vị tu sĩ râu tóc xồm xoàm, những đoàn voi, ngựa đeo yên cương màu
mè sặc sỡ rất đẹp, cùng những đoàn lạc đà xứ Rajputana từ từ đi diễn hành trước
mắt chúng tôi. Một cuộc rước lễ của các tu sĩ sống khỏa thân theo phái tự nhiên
Kỳ Na Giáo (Jainism), tay cầm đạo kỳ bằng lụa diễn hành khắp nơi.
Những tu sĩ mặc khố vải tụ hợp thành từng nhóm nhỏ, ngồi yên lặng, thân mình bôi
tro, trên trán có vẽ con mắt thánh bằng bột vàng. Những tu sĩ dòng Swami đầu cạo
trọc, mặc áo màu vàng sậm, đi qua lại với cây gậy tre và cái bình bát cầm nơi
tay. Gương mặt họ biểu lộ sự trầm lặng và an tịnh của nội tâm trong khi họ đi
dạo ngắm cảnh hoặc ngồi thảo luận đạo lý với các đệ tử.
Rải rác đó đây, dưới cây to bóng mát, ngồi chung quanh những đám củi lửa vừa đốt
lên là những nhà tu khổ hạnh búi tốc cột lên trên đỉnh đầu. vài vị trong số đó
để râu dài đến một thước tây, họ phải cột và thắc nút lại cho gọn. Họ ngồi thiền
trong im lặng hoặc đưa tay ban ân huệ cho người đi đường, trong số này là những
người thường dân đi xem lễ, những người đàn bà mặc sari màu mè sặc sở, những kẻ
hành khuất và những vị quốc vương ngồi chiễm chệ trên chiếc bành đặt lưng voi
v.v... những người thuật sĩ thân thể gầy còm làm những tư thế vặn vẹo thân mình
coi rất lạ mắt. những nhà hiền triết với tác phong đạo mạo, trầm mặc, biểu lộ
trạng thái bằng an của nội tâm. Trấn ác tất cả những tiếng động ồn ào, là tiếng
chuông ngân vang rền trong các ngôi đền thờ.
Qua ngày thứ hai của cuộc lễ, chúng tôi đi viếng những đạo viện và những túp
liều tạm mới dựng lên để kính chào những nhà tu sĩ thánh đức. Chúng tôi được ân
huệ của vị Đạo trưởng phân bộ Giri của dòng Swami, một tu sĩ khổ hạnh có khuôn
mặt gầy ốm và cái nhìn sáng rực như lửa. Kế đó chúng tôi đến viếng một đạo viện
mà vị sư trưởng đã từng trải qua chín năm tịnh khẩu và tịch cốc, chỉ dùng toàn
trái cây mà thôi. Nơi hành lang của đạo viện, có một tu sĩ mù tên là Pragla
Chakshu, rất tinh thông kinh điển và được tất cả các môn phái đều mến chuộng.
Khi tôi đã chấm dứt một bài thuyết pháp bằng tiếng Hindi và triết phái Vedanta,
nhóm chúng tôi từ giã đạo viện êm đềm này để đến viếng tu sĩ Krishna ở gần bên,
một vị tu sĩ có gương mặt khôi ngô tươi nhuận và một vóc dáng mạnh khỏe. Một con
sư tử cái được tập luyện thuần nết, nằm dưới chân tu sĩ. Nhờ ảnh hưởng tâm linh
của tu sĩ, con sư tử này không chịu ăn thịt nữa mà chỉ ăn cơm và sữa tươi. Tu sĩ
đã tập cho nó biết ngân trong cổ họng một tiếng thánh ngữ AUM bằng một giọng
thâm trầm và ấm tiếng: nó có vẻ như một vật đã biết sùng tín thiêng liêng!
Kế đó, chúng tôi đến viếng một vị tu sĩ kiêm học giả còn trẻ tuổi. Tôi xin
nhường lời cho vị bí thơ của tôi diễn tả cuộc gặp gỡ này trong tập Du Ký của
ông:
“Chiếc xe Ford của chúng tôi vượt qua sông Hằng trên một chiếc cầu nổi gập ghềnh
và chạy len lỏi trong đám rừng người qua những con đường nhỏ hẹp quanh co. Chúng
tôi đi qua một chỗ nọ trên bờ sông, mà đại đức Yoga nói rằng khi xưa Sri
Yukteswar đã gặp đức Babaji. Đi được một quảng khá xa, chúng tôi ngừng xe bước
xuống đi bộ, vượt qua đám khói của các tu sĩ đốt lửa củi trên bãi cát, và đến
những túp liều tạm của các tu sĩ khác. Một trong những lều tạm này cửa rất thấp,
là nơi tạm trú của Kara Patri, một tu sĩ đi ta bà còn trẻ tuổi, nổi tiếng về học
lực uyên thâm. Tu sĩ ngồi trong lều, hai chân kiết già trên một đống rơm, chỉ
mặc một bộ áo vàng sậm, và không sở hữu vật gì khác.”
“Một gương mặt thật tiêu diêu thanh thoát mỉm cười tiếp đón khi chúng tôi cuối
mình xuống thấp để chui vào lều và làm lễ dưới chân tu sĩ, dưới ánh đèn dầu leo
lét phát ra từ bóng đen trên vách. Gương mặt tu sĩ tỏ vẻ hân hoan, đôi mắt và
hàm răng trắng đều chiếu sáng trong đêm tối. Người nói tiếng Hindi, nét mặt của
người biểu lộ tình thương, lòng nhiệt thành vì đạo và sự cao cả tâm linh, điều
đó không ai có thể đoán lầm.”
“Chúng tôi hãy thử hình dung cuộc đời lý tưởng của một người đã cắt đứt mọi sự
trói buộc với trần gian, không hề bận tâm lo nghĩ về việc ăn, việc mặc, không ăn
thức ăn nấu chính, không cầm bình bát khất thực, không hề lo nghĩ về tiền bạc,
không cần làm gì để kiếm tiền, không cần buôn bán làm ăn và phó mặc mọi sự cho
Thượng Đế, không bận nghĩ đến vấn đề về phương tiện di chuyển, không bao giờ
dùng xe cộ, mà chỉ đi bộ dạo theo bờ những con sông linh thiêng, và sau hết,
không bao giờ dừng chân ở một nơi nào lâu hơn một tuần lễ, để khỏi tạo nên những
sự lưu luyến, trói buộc. Một người đức độ khiêm tốn nhưng học vấn uyên thâm về
các thánh kinh Phệ Đà, có bằng tiến sĩ Văn Khoa và được ban danh hiệu Shastri
(bác học về khoa Thánh Kinh Tôn Giáo) tại trường đại hộ Bénarès, đó là tu sĩ
Kara Patri. Với một lòng thán phục vô biên, tôi ngồi dưới chân tu sĩ. Tôi cảm
thấy rằng lòng mong ước của tôi được biết xứ Ấn Độ thực sự, xứ Ấn Độ thầm lặng
và cổ kính, nay đã được thỏa mãn. Tu sĩ Kara Patri chính là người đại diện xứng
đáng của xứ Ấn Độ thần bí và cao cả tâm linh đó..."
Tôi hỏi thăm Kara Patri về cuộc đời đi ta bà của ông ta:
- Tu sĩ có mặc chiếc áo nào khác không, khi trời rét lạnh?
- Không, tôi chỉ có một áo cũng đủ.
- Tu sĩ có đem theo kinh sách gì không?
- Không, tôi giảng đạo bằng trí nhớ cho những ai chịu nghe tôi thuyết pháp.
- Tu sĩ có bận rộn công việc gì khác không?
- Tôi đi dạo trên bờ sông Hằng.
Những lời này làm cho tôi hối tiếc rằng mình đã không có được một đời sống giản
dị như thế! Tôi nhớ đến Mỹ Quốc, và những trách nhiệm nặng nề của tôi. Tôi thầm
nghĩ mà lòng buồn man mác:
- Không, định mệnh của tôi trong kiếp này là không phải đi dạo trên bờ sông
Hằng!
Khi tu sĩ đã nói qua cho tôi biết đại khái về những thành quả tâm linh của y,
tôi hỏi một câu hỏi quyết định:
- Tu sĩ diễn tả những điều đó theo Kinh Thánh, hay là theo kinh nghiệm bản thân?
Tu sĩ đáp với một nụ cười thành thật:
- Một nửa theo kinh sách, và một nửa theo kinh nghiệm của riêng tôi.
Chúng tôi lại đắm chìm trong im lặng và ngồi thiền định trong giây lát. Sau khi
đã khiếu từ tu sĩ, tôi nói với bạn Richard:
- Đó là một ông vua ngự trên chiếc ngai bằng rơm mạ vàng!